Công bố Báo cáo về phụ nữ và nam giới các dân tộc ở Việt Nam giai đoạn 2015-2019
10/08/2021
Ngày 04/8/2021, Cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women) phối hợp với Viện Khoa học Lao động và Xã Hội (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội), Vụ Dân tộc thiểu số (Ủy ban Dân tộc) và Đại sứ quán Ireland tại Việt Nam đã công bố Báo cáo “Số liệu về phụ nữ và nam giới các dân tộc ở Việt Nam giai đoạn 2015-2019” và Tóm tắt chính sách: “Các vấn đề giới trong vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam”. Đây là hoạt động được tổ chức nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế về Dân tộc thiểu số (DTTS) 9/8.
Ảnh minh họa Các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nguồn: Internet.
Theo Báo cáo, trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019, tỷ lệ tảo hôn của người DTTS đã giảm 4,7%; Tỷ lệ hộ gia đình có kết nối Internet (wifi, cáp hoặc 3G) tăng cao 9,4 lần; Thu nhập bình quân một nhân khẩu hàng tháng tăng mạnh gấp 1,8 lần (đặc biệt, thu nhập trung bình hàng tháng của hộ gia đình DTTS có chủ hộ là nữ luôn cao hơn so với chủ hộ là nam); Tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em tăng 15,2%; Tỷ lệ người DTTS tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,5% trong đó không có sự khác biệt giữa nam và nữ…
Ảnh: Tỷ lệ Thu nhập bình quân 01 nhân khẩu của người DTTS. Nguồn: Internet.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Báo cáo cũng chỉ rõ một số vấn đề giới ảnh hưởng đến phụ nữ và trẻ em gái vẫn tiếp tục tồn tại trong vùng DTTS và miền núi. Tỷ lệ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống tuy có giảm song chưa đồng đều; lao động nữ DTTS làm các công việc không ổn định, dễ bị tổn thương hơn so với lao động nam, phụ nữ và trẻ em gái trong cộng đồng DTTS còn bị thiệt thòi trong tiếp cận các cơ hội và nguồn lực. Tỷ lệ phụ nữ DTTS từ 10-49 tuổi sinh con tại cơ sở y tế đạt 86,4%, vẫn thấp hơn đáng kể so với phụ nữ Kinh là trên 99%...
Nhìn chung, Báo cáo đã cung cấp một bức tranh rõ nét, đa chiều về thực trạng bình đẳng giới ở các vùng DTTS ở Việt Nam, chỉ ra các vấn đề giới nào đang được Chính phủ giải quyết tốt và vấn đề nào cần phải tiếp tục nỗ lực can thiệp về cả chính sách và chương trình. Các số liệu thống kê giới này sẽ là cơ sở cho quá trình xây dựng, thực hiện và giám sát các chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng DTTS và miền núi hướng tới phát triển bền vững vào năm 2030./.
D. Huyền (tổng hợp)